samedi 27 décembre 2008

Mes 33 ans

Bộ tiền escudo cuối cùng của Bồ-đào-nha


Trước khi đồng euro được đưa vào lưu thông, nước Cộng hoà Bồ-đào-nha có một bộ tiền gồm năm loại mệnh giá 500 escudos, 1000 escudos, 2000 escudos, 5000 escudos và 10000 escudos với đề tài Những cuộc khám phá của người Bồ-đào-nha. Dưới đây là phần giới thiệu tóm tắt tiểu sử của các nhân vật lịch sử được in trên các tờ bạc này.
500 escudos
João de Barros (1496?-1570)

João de Barros sinh năm 1496, ông là sử gia chuyên nghiên cứu về các cuộc khám phá và những thành công của Bồ-đào-nha trên biển. Đồng thời, ông cũng là tác giả của nhiều tác phẩm bàn về giáo dục và tư tưởng. Xuất thân từ dòng họ quí tộc, cho nên ông đã tham gia công việc triều chính từ khi còn rất trẻ. De Barros được ăn học trong triều đình và thành người chăm lo chuyện trang phục cho hoàng tử João, người về sau trở thành vua João đệ tam. Vào năm 1525, khi João đệ tam lên ngôi, ông được cử làm người quản lí ngân quĩ của Nhà Ấn-độ, Mina và Ceuta, về sau ông nắm chức vụ người đứng đầu Nhà Ấn-độ. Những trọng trách này đã tạo điều kiện cho ông được tiếp cận với các tài liệu chính thức và có tiếp xúc trực tiếp với các vấn đề liên quan nhiều cơ sở của người Bồ-đào-nha ở những vùng đất đó. Điều này, cùng với nền giáo dục nhân văn mà João được thụ hưởng, đã có ảnh hưởng đến hoạt động của ông trên cương vị của một sử gia. Cũng giống như Tito Lívio, João de Barros có một quan điểm rộng, khác người và đầy tính mô phạm về lịch sử, và hẳn có lẽ người ta xếp ông vào hàng ngũ những nhà sử học vĩ đại nhất của Âu châu thời kì Phục-hưng. Các tác phẩm của ông giàu chất học thuật chứ không mang tính chất phổ biến kiến thức. Với những sáng tác văn chương phong phú của mình, bắt đầu bằng tác phẩm Crónica do Imperador Clarinmundo (Biên niên sử về Hoàng đế Clarinmundo), đặc biệt cần chú trọng đến tác phẩm Décadas (Những thập niên), trong đó João de Barros miêu tả sự hiện diện và hoạt động của người Bồ-đào-nha ở nhiều lục địa. Cũng ở sáng tác này, về sau được Diogo de Couto viết tiếp, mối liên kết giữa hai bộ môn Lịch sử và Địa lí (đặc biệt là địa kinh tế) được thiết lập. Ở tác phẩm A Gramática da Língua Portuguesa (Ngữ pháp tiếng Bồ-đào-nha), sau đó là cuốn Diálogo em Louvor da Nossa Linguagem (Cuộc đối thoại ngợi ca ngôn ngữ của chúng ta), João de Barros xuất hiện như một chuyên gia ngữ pháp và nhà sư phạm xuất sắc trên phương diện bảo vệ tiếng Bồ-đào-nha, một khuynh hướng đại diện cho tinh thần của thời kì Phục-hưng. João de Barros qua đời ở một địa điểm gần Pompal vào khoảng năm 1570.

1000 escudos
Pedro Álvares Cabral (1467?-1520?)

Với công lao khám phá ra vùng đất Brasil, Pedro Álvares Cabral mãi mãi để tên tuổi của mình gắn với Lịch sử những khám phá đường biển của Bồ-đào-nha. Ngày 9 tháng ba năm 1500, ông ra khơi từ Lisbonne, dẫn đầu hạm đội thứ hai do vua Manuel đệ nhất phái sang Ấn-độ. Sau khi tới vùng lãnh hải Cape Verde, hạm đội này đã đi chệch hướng xuống phía tây-nam, song sự kiện lạc đường này lại trở thành vĩ đại hơn mức cần thiết, một việc dường như đã được tiền định. Ngày 22 tháng tư năm 1500, Pedro Álvares Cabral đặt chân lên bờ biển Brasil và ông có những tiếp xúc đầu tiên với người bản địa vào ngày hôm sau. Ông mất vào khoảng năm 1518-1520 và được an táng tại nhà thờ Graça, Santarém.

2000 escudos
Bartolomeu Dias (?-1500?)

Bartolomeu Dias trở thành một trong số những tên tuổi nổi tiếng của Lịch sử những cuộc khám phá đường biển bởi lẽ ông là nhà hàng hải đầu tiên đi vòng quanh Mũi đất Giông tố, miền đất này được ông đặt lại tên thành Mũi Hảo Vọng. Việc khám phá ra con đường này, nối Đại-tây-dương với Ấn-độ-dương vào năm 1488, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với công cuộc chinh phục bằng đường biển của người Bồ-đào-nha về sau, nó cũng mở đường cho chuyến viễn du của Vasco da Gama tới Ấn-độ. Bartolomeu Dias đã tham gia vào cuộc thám hiểm vùng đất Brasil năm 1500. Ông qua đời cùng năm khi một cơn bão mạnh nhấn chìm con tàu của ông xuống vùng biển gần Mũi Hảo Vọng, một nơi ông đã từng qua lại mấy năm trước đó.

5000 escudos
Vasco da Gama (1469-1524)

Tên tuổi Vasco da Gama mãi mãi được tạc vào lịch sử nhân loại khi ông, theo lệnh vua Manuel đệ nhất, tìm ra tuyến đường biển dẫn tới Ấn-độ vào năm 1498. Là nhà hàng hải Phương Tây đầu tiên đến được đó, Vasco da Gama đã trình lá thư của nhà vua Bồ-đào-nha lên Zamorin, người cai trị xứ Calicut, ông tìm kiếm mối liên minh với vị chúa bản địa và đề xuất việc thiết lập quan hệ buôn bán. Từ đó trở đi, người Bồ-đào-nha giữ vai trò độc quyền của người Âu trong trao đổi thương mại với Ấn-độ. Trở về Bồ-đào-nha, Gama được nhà vua và dân chúng trào đón như một vị anh hùng, và ông được phong chức “Đô đốc chỉ huy biển Ấn-độ”. Vasco da Gama qua đời trong chuyến viễn du cuối cùng tới Phương Đông, lúc bấy giờ ông đang ở Cochin. Mộ phần của ông hiện nằm tại tu viện Jerónimos.

10000 escudos
Infante D. Henrique (1394-1460)

Sinh tại Porto và là con trai thứ năm* của vua João đệ nhất và Philippa xứ Lencastre, Henrique nằm trong số những tên tuổi xuất sắc nhất của Lịch sử Bồ-đào-nha. Là một người hành động và rất quyết đoán, ông đóng vai trò lãnh đạo trong cuộc tấn công thành công vào vùng đất Ceuta năm 1415. Suốt đời mình, ông tập trung quan tâm vào việc khai phá Bắc Phi, tuy nhiên tên tuổi ông lại luôn gắn chặt với chương trình Những cuộc khám phá của người Bồ-đào-nha, một chương trình do ông đỡ đầu. Vào năm 1434, các hòn đảo trên Đại-tây-dương thuộc chủ quyền Bồ-đào-nha đã được khám phá và ổn định, mũi đất Bojador cũng được những nhà hàng hải của ông tiếp cận nhiều lần. Tới tận lúc bấy giờ, mũi đất này vẫn là mốc giới hạn của con đường biển phía tây, nhưng Henrique đã phái các nhà thám hiểm của ông sang bờ biển châu Phi vượt ra khỏi khuôn khổ phạm vi mũi Bojador. Đến năm 1460, khi ông mất, dải bờ biển châu Phi, xa đến tận nước Sierra Leone, đã bị người Bồ-đào-nha do thám. Henrique Người đi biển được an táng ở tu viện Batalha.

* wikipedia bản tiếng Anh, Pháp ghi là "thứ ba", trong khi bản tiếng Bồ-đào-nha và tư liệu của Ngân hàng Bồ-đào-nha đều viết là "con trai thứ năm" (quinto filho).

Nguồn: http://www.bportugal.pt/

*****************************************************

Đây là série giấy bạc escudo cuối cùng được lưu hành (đến ngày 28 tháng hai 2002). Mỗi tờ bạc mang chân dung một nhân vật lịch sử, những người có liên quan đến các cuộc thám hiểm nổi tiếng của nước Bồ-đào-nha.


jeudi 25 décembre 2008

Bom Natal ! Merry Christmas ! Joyeux Noël !

Xích-lô Saigon

Một điểm đỗ chờ khách của xích-lô tại Sài gòn, Việt nam Cộng hoà vào cuối thập niên 1950.

"Chiếc xe kéo đầu tiên (tiền thân của loại xích-lô hiện nay) được Jonathan Globe, một nhà truyền giáo người Mĩ, và Izumi Yosuke sáng chế vào khoảng năm 1868 tại Nhật bản. Ngay từ lúc mới xuất hiện, nó đã chiếm được ưu thế so với hình thức vận chuyển truyền thống của xứ Phù tang là chiếc cáng. Xe kéo đặc biệt được giới quí tộc và kĩ nữ Nhật bản ưa dùng." (Theo wikipedia)

lundi 22 décembre 2008

La Société des Tramways du Tonkin

Công ty xe điện Bắc kì



Công ty khuyết danh có số vốn năm triệu francs. Số tiền này được chia thành 50.000 cổ phần, mỗi cổ phần trị giá 100 francs.
Phần chữ trong khung tròn bên phải: - Thuế con niêm do người mua cổ phần thanh toán. - Thông báo về việc công ty được cấp phép hoạt động được đăng trên Công báo số ra ngày 22 tháng ba 1929.

Bản Điều lệ được trình công chứng tại văn phòng của Thầy Blanchet, Chưởng khế tại Paris, ngày 20 tháng chạp 1901. Bản Điều lệ này được sửa đổi sau các kì Đại hội cổ đông bất thường diễn ra vào các ngày mồng 4 tháng chạp 1903, 22 tháng tư 1904, 13 tháng giêng 1905, mồng 1 tháng chạp 1927, mồng 5 tháng ba 1928, mồng 9 tháng ba 1929.
Trụ sở công ty tại Paris
Người giữ cổ phiếu này sở hữu một cổ phần trị giá 100 francs
Số 44128
Theo uỷ quyền của Hội đồng Quản trị (đã kí)
Một quản trị viên (đã kí)

Nhà in E. Desfosses - Paris

****************************************

Phần chữ ở các con dấu đóng lên tờ cổ phiếu:

Tên gọi mới : Công ty vận chuyển công cộng thuộc vùng Hà nội

Số vốn 45.900.000 francs được chia thành 91 800 cổ phần, mỗi cổ phần trị giá 500 francs theo các Nghị quyết của kì họp Đại hội Cổ đông bất thường tổ chức ngày 4 tháng chạp 1951.

Cổ phiếu mang mệnh giá 500 francs.

Ngoài ra còn có 10 con dấu xác nhận đã trả cổ tức (mỗi lần được nhận 0,65 F) cho cổ phiếu này từ 1961 đến 1971.

****************************************

Lược sử Công ty xe điện Bắc kì
Hội điền địa Đông dương được thành lập năm 1901 nhằm phát triển các khu đất đã bị giáng loại trong khu vực thành Hà nội. Năm 1929, hội này trở thành Công ty xe điện Bắc kì, sau đó mang tên Công ty vận chuyển công cộng thuộc vùng Hà nội vào năm 1952. Trước đó, vào năm 1904, Hội điền địa được sáp nhập với Công ty tàu điện Hà nội, thành lập năm 1899, nhà máy điện cùng hệ thống đường ray của công ty này tập trung quanh các khu đất của Hội điền địa. Số vốn ban đầu của hội này là 1,1 triệu francs, đến năm 1903 lên thành 1,5 triệu, rồi đạt 2,5 triệu sau khi Công ty xe điện Bắc kì góp vốn. Công ty xe điện Bắc kì có những bước khởi đầu khó khăn, tài khoản của doanh nghiệp này gần như liên tục ở mức thâm hụt đến tận năm 1913. Việc khai thác các tuyến tàu điện, cho thuê nhà cửa và chiếu sáng dinh toàn quyền thời gian đó chỉ đóng góp được phân nửa vào lợi nhuận gộp của doanh nghiệp. Doanh thu từ các tuyến tàu điện có tăng nhưng rất chậm trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh mặc dù hệ thống tàu điện trở nên sinh lợi ở mức cao và ổn định (năm 1938, doanh thu đạt 1,8 triệu francs so với 1,1 triệu francs dành cho các khoản chi phí). Tình trạng xuống cấp trầm trọng của nhà máy điện khiến nó phải đóng cửa vào năm 1928, tuy nhiên nguồn điện để hệ thống tàu điện hoạt động lúc này do Công ty điện lực Đông dương cung cấp. Công ty xe điện Bắc kì chưa bao giờ muốn mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh vực có liên quan như sản xuất và cung cấp điện năng hay kinh doanh tại các thành phố khác trong xứ Đông dương. Ngoài ra, doanh thu của công ty này cũng luôn bấp bênh theo những diễn biến bất thường của thời tiết, một vụ thu hoạch lúa thất bát có thể khiến đông đảo người dân thành thị di cư về các miền quê và những trận lụt ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng có thể làm cho giao thông bị ngưng trệ kéo dài. Năm 1951, số vốn của Công ty xe điện Bắc kì là 45,9 triệu francs và lên đến 114,7 triệu francs vào năm 1953. Công ty xe điện Bắc kì chấm dứt mọi hoạt động vào ngày mồng 1 tháng sáu năm 1955, nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà cam kết trả cho hãng khoản tiền bồi thường trị giá 300 triệu francs. Số tiền này được thanh toán trong vòng 25 năm và theo định kì sáu tháng một lần, mỗi lần 6 triệu francs. Bắc Việt nam thực hiện nghĩa vụ thanh toán của họ đến giữa năm 1953 ; Công ty xe điện Bắc kì được giải thể vào năm 1962.



jeudi 18 décembre 2008

Une carte postale qui venait d'avoir 100 ans

Ga Hà nội




50 A. TONKIN - Hanoï -- Gare, Façade extérieure

Collection de Pierre Dieulefils

---------------

Gửi từ Hà nội ngày 6 tháng mười một 1908

Đến địa chỉ 27, avenue de la Gare, Brioude - Haute Loire ngày 8 tháng chạp 1908

vendredi 12 décembre 2008

4 mẫu tiền Nam Việt nam không được phát hành

Pierrette Lambert

Pierrette Lambert, sinh ngày 10 tháng sáu năm 1928, là nữ nghệ sĩ Pháp có tiếng vì đã vẽ một số tiền giấy cũng như nhiều tem bưu chính. Bà học trường Mĩ thuật Poitiers, sau đó là trường Estienne (trường cao đẳng nghệ thuật và đồ họa công nghiệp) ở Paris. Chính tại thành phố này, tài năng của bà được công nhận.
Cuối thập niên 1950, ông M. Guitard, giám đốc phụ trách việc sản xuất giấy bạc của Ngân hàng Pháp quốc (Banque de France) có mời bà vẽ một số mẫu tiền cho Việt nam. Tuy nhiên bộ tiền này đã không được phát hành. Pierrette là tác giả của ba mẫu tiền Pháp gồm tờ 50 francs Racine (phát hành năm 1962), tờ 5 francs Louis Pasteur (phát hành năm 1966) và tờ 200 francs Montesquieu (phát hành năm 1981).
Nguồn: Numismatique & Change, số 399, tháng chạp 2008.