mardi 31 mars 2009

Khôi phục Độc lập

A Restauração da Independência Portuguesa



#651. 100 escudos đúc năm 1990


*******

Dom Alfonso Henriques, vị vua đầu tiên của Bồ-đào-nha

Nền độc lập của Bồ-đào-nha bị gián đoạn trong sáu chục năm, từ 1580 đến 1640. Nguyên do là vua Sébastien đệ nhất (Dom Sebastião) qua đời nhưng không có con nối dõi, Philippe đệ nhị của Tây-ban-nha đã chiếm ngai vàng và trở thành Philippe đệ nhất của Bồ-đào-nha. Mặc dù Bồ-đào-nha không chính thức bị mất nền độc lập, song vương quốc này được cai trị bởi một ông vua Tây-ban-nha và một liên hiệp các vương quốc được hình thành; Năm 1640, Jean đệ tứ (João IV) lãnh đạo một cuộc nổi dậy được những quí tộc mang tâm trạng bất mãn hậu thuẫn và ông được phong làm vua.

Theo wikipedia

lundi 30 mars 2009

La vie quotidienne

Bác lái lợn

22. TONKIN - Hanoi
Conducteur de brouette transportant des cochons
Người đẩy xe cút-kít chở lợn
Collection de Dieulefils
************
Gửi từ Hà nội ngày 22 tháng sáu 1909
Đến Savoie
Hanoï, 22 juin 09
H. Chapuis
*************
"Les brouettes indigènes méritent une description spéciale ; elles sont entièrement construites en bois et leurs différentes pièces sont retenues avec des chevilles, également en bois ; elles munies commes les nôtres de deux pieds qui permettent de les poser d'aplomb à terre, mais elles en diffèrent absolument au point de vue du mode de répartition de la charge. La brouette indigène est disposée de telle façon que le chargement pèse le moins possible sur les bras qui la conduisent : la roue est placée non pas en avant de la charge , comme dans nos brouettes européennes, mais au-dessous. Dans ces conditions, et comme cette roue est assez haute, la plate-forme qui supporte le chargement est sur un plan relativement élévé par rapport aux montants. Il en résulte qu'il faut une certaine habitude pour conduire cette brouette bien en équilibre lorsqu'elle est chargée. Nos soldats ne peuvent y parvenir sans de grands efforts et sans verser à chaque instant. Les Annamites, au contraire, habitués, en marchant avec leurs grandes balances suspendues au bambou, à tenir compte de tous les effets de l'équilibre, tirent de leur brouette un excellent parti."
(Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, Paris, 1999, p.248)

vendredi 27 mars 2009

Une demoiselle tonkinoise

Une Tonkinoise


6. TONKIN - Jeune femme en costume blanc
Thiếu phụ trong trang phục trắng
Collection de Dieulefils
*****
Gửi từ Hà nội ngày 11 tháng ba 1911
Đến Carpentras, Vaucluse


jeudi 26 mars 2009

Partilha do Mundo

Phân chia Thế giới

#672. 200 escudos đúc năm 1994


****************************
Đường phân định trên bình đồ của Cantino (1502)

Tratado de Tordesilhas

Hiệp ước Tordesillas


#671. 200 escudos đúc năm 1994


**************************

Hiệp ước Tordesillas


Hiệp ước Tordesillas là một hiệp ước giữa Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha, ra đời vào cuối thế kỉ XV nhằm mục đích chia Thế giới Mới, nơi được xem như terra nullius (đất vô chủ). Theo hiệp ước này, Thế giới Mới được phân chia bằng đường phân định là một kinh tuyến nam-bắc cách quần đảo Cap-Vert (hồi đó thuộc về Bồ-đào-nha) 370 hải lí (1770 km), đường kinh tuyến này hiện ở 46° 37' tây. Hiệp ước này được soạn thảo tại Tordesillas, xứ Castille (nay là tỉnh Valladolid, Tây-ban-nha). Bản tiếng Castille của hiệp ước này được vua Ferdinand đệ nhị xứ Aragon và nữ hoàng Isabelle đệ nhất xứ Castille phê chuẩn ngày mồng 2 tháng bảy 1494 tại Castille. Bản tiếng Bồ-đào-nha được vua Jean đệ nhị của Bồ-đào-nha kí ngày mồng 5 tháng chín cùng năm tại Setúbal. Theo hiệp ước Tordesillas, vương quốc Castille cùng quần đảo Canaries thuộc về triều đình Tây-ban-nha, còn các đảo Madère (Madeira), Porto Santo, quần đảo Açores, quần đảo Cap-Vert cũng như quyền chinh phục vương quốc Fez hoặc Fès (vương quốc Maroc) và quyền đi lại bằng đường biển ở phía nam đường vĩ tuyến chạy qua quần đảo Canaries thuộc về triều đình Bồ-đào-nha. Vùng đất Brasil được khám phá trước khi hiệp ước này được kí kết, vì thế nó thuộc về chủ quyền của Bồ-đào-nha. Hiệp ước Tordesillas giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh từ việc Christophe Colomb khám phá ra Thế giới Mới. Vào năm 1481, sắc lệnh Æterni regis của giáo hoàng công nhận rằng nước Bồ-đào-nha được hưởng tất cả các phần đất ở phía nam quần đảo Canaries. Tuy nhiên, đến tháng năm 1493, giáo hoàng Alexandre VI, một người có sinh quán tại Tây-ban-nha, lại ban hành sắc lệnh Inter cætera trong đó qui định rằng các miền đất mới được khám phá nằm ở phía tây đường kinh tuyến cách quần đảo Cap-Vert 100 hải lí thuộc về Tây-ban-nha, các miền đất ở phía đông là của Bồ-đào-nha. Bản sắc lệnh này không đề cập đến những vùng đất lúc đó đã nằm dưới sự cai trị của một quốc gia Công giáo. Vua Jean đệ nhị của Bồ-đào-nha không bằng lòng với sắc lệnh này vì nó trao cho ông quá ít đất và ngăn cản ông chiếm hữu xứ Ấn-độ, một mục tiêu ngắn hạn của ông (kể từ 1493, các nhà thám hiểm Bồ-đào-nha mới chỉ đến được bờ biển Đông Phi.). Vì thế, ông bắt đầu tiến hành thương lượng với vua Ferdinand và nữ hoàng Isabelle của Tây-ban-nha với lí do rằng đường phân định này chia tách địa cầu và có thể hạn chế những tham vọng của người Tây-ban-nha ở Á châu. Mục đích của vua Bồ-đào-nha là muốn dịch đường phân định về phía tây và ông đã thành công. Bồ-đào-nha đã khẳng định chủ quyền trên những vùng đất mới được khám phá cách xa quần đảo Cap-Vert đến 370 hải lí về hướng tây. Hiệp ước Tordesillas hoàn toàn chống lại các sắc lệnh của giáo hoàng Alexandre VI cho nên nó bị giáo hoàng Jules II cấm qua sắc lệnh Ea quae đề ngày 24 tháng giêng 1506. Những vùng đất mới này vẫn ít được biết đến và được xác định bằng những phương pháp ước chừng, điều trên lí thuyết công nhận người Tây-ban-nha sở hữu toàn bộ châu Mĩ. Tuy nhiên, Pedro Álvares Cabral đã tình cờ khám phá ra Brasil khi trên đường đến Ấn-độ năm 1500, cho nên phần phía đông của lục địa này được trao cho Bồ-đào-nha. Một số sử gia cho rằng người Bồ-đào-nha biết đến vùng Nam Mĩ rộng lớn mà phần lớn diện tích là xứ Brasil từ trước thời điểm kể trên, vì vậy việc Cabral đặt chân lên Brasil không phải là điều tình cờ. Hơn nữa, đường phân định không được tôn trọng triệt để và người Tây-ban-nha không có phương tiện để bảo đảm sự phân chia này nên họ không thể ngăn được người Bồ-đào-nha mở rộng đất đai vượt ra khỏi đường phân định. Các cường quốc hàng hải châu Âu khác như Pháp, Anh, Hà-lan,vv bị từ chối mọi quyền lợi ở những vùng đất mới này cho nên, vào thời gian đầu, họ chỉ có thể hành nghề cướp biển và buôn lậu nhằm kiếm lời từ Thế giới Mới vô cùng trù phú trước khi họ, với sự giúp đỡ của đạo Tin lành, bác bỏ quyền lực của giáo hoàng. Về phần mình, vua François đệ nhất của Pháp từng yêu cầu được xem một điều trong bản di chúc của Adam, người đã loại ông ra khỏi vụ chia chác đất đai này.

Hiệp ước Tordesillas trở thành vô nghĩa từ 1580 đến 1640 khi vua Tây-ban-nha cũng là vua Bồ-đào-nha, và nó bị thay thế bằng Hiệp ước Madrid 1750, theo đó Bồ-đào-nha được trao quyền kiểm soát những vùng đất mà nước này chiếm được ở Nam Mĩ. Tuy nhiên, hiệp ước mới mau chóng bị người Tây-ban-nha bác bỏ.

Các văn bản gốc của Hiệp ước Tordesillas hiện được lưu giữ tại Archivo General de Indias (Tây-ban-nha) và tại Arquivo Nacional da Torre do Tombo (Bồ-đào-nha).

Mặt trước của tờ số 6 trong bản Hiệp ước Tordesillas, tài sản của Thư viện Quốc gia Bồ-đào-nha.

Nguồn: wikipedia

lundi 23 mars 2009

Morte no mar

Chết trên biển




Mặt sau của đồng xu này miêu tả cảnh một trận bão lớn. Biển cả trở nên hung tợn với những con sóng lớn tựa những sợi chão khổng lồ đang kéo siết một chiến thuyền mang biểu tượng của Hoàng-gia Bồ-đào-nha xuống đáy đại dương.


#716. 200 escudos đúc năm 1999

**********************************

Trong cuốn "La couronne et la lyre", một tuyển tập thơ Hi-lạp cổ do Marguerite Yourcenar chọn dịch từ tiếng Hi-lạp, có ba bài thơ mang nội dung khá tương đồng với chủ đề của đồng xu trên. Xin chép lại đây hầu những ai biết tiếng Pháp.

****
Trois poèmes du même sujet extraits de "La couronne et la lyre" par Marguerite Yourcenar sont retapés exclusivement pour des francophones.

Tombeau d'un naufragé

Embarquez-vous sans peur. La mer causa ma mort,
Mais d'autres ce jour-là, sont arrivés au port.
THÉODORIDAS - Anth. Pal.,VII, 282.

***
Tombe d'un noyé

Bonne chance sur mer, ô hardis matelots!
Mais sachez que jadis je péris sous les flots.
Épigramme funéraire attribuée à Platon - Anth. Pal., VII, 269.

***
Sur la tombe d'un noyé

Comment t'appelais-tu? Pauvre homme, on t'a trouvé
Rejeté par la mer et des vagues lavé.
Léotichos pour toi fit poser cette pierre.
Soins pieux. J'ai vu couler des pleurs de sa paupière.
Pour toi? Pour lui plutôt, car son métier amer
L'expose tous les jours au péril de la mer.
CALLIMAQUE - Anth. Pal., VII, 277.
















dimanche 22 mars 2009

Duarte Pacheco Pereira

Duarte Pacheco Pereira
(*1460? - †1533)


#719. 200 escudos đúc năm 1999



*************


Duarte Pacheco Pereira là con trai của João Pacheco và Isabelle Pereira. Cụ tổ của ông là Diogo Lopes Pacheco, lãnh chúa vùng Ferreira de Alves, người đã ám sát Inês de Castro rồi sau đó bỏ trốn sang Tây-ban-nha và trở về vào thời Chúa Avis, lấy lại được toàn bộ gia tài và trở thành một cố vấn cho triều đình mới.

Năm 1455, người ta nhận thấy Pacheco là một người có học thức, và ông được hưởng học bổng của nhà vua. Năm 1588, ông thám hiểm bờ biển tây Phi. Pacheco Pereira bị bệnh sốt vàng da trong chuyến đi đó còn chiếc tàu bị đắm. Ông được Bartolomeu Dias, người đang trên đường quay về Bồ-đào-nha sau chuyến đi vòng quanh Mũi Hảo-vọng lần thứ nhất, cứu sống trên đảo Hoàng-tử (l'Île du Prince) trong vịnh Ghi-nê. Những kiến thức Pacheco Pereira học hỏi được từ chuyến thám hiểm của Dias và của chính ông đã giúp ông nhận được vị trí người phụ trách lĩnh vực địa lí chính thức của triều đình Bồ-đào-nha. Ngày mồng 7 tháng sáu 1594, với tư cách là contínuo (một chức vụ tương tự chưởng khế hoặc tổng thư kí) của văn phòng nội các vua Bồ-đào-nha, ông đã tham gia kí Hiệp ước Tordesillas với triều đình Tây-ban-nha. Đây là một hiệp ước có nội dung chia chác phần thế giới không theo đạo Thiên chúa giữa hai cường quốc trên biển là Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha song nó bị giáo hoàng ngăn cấm. Năm 1498, Pacheco Pereira nhận nhiệm vụ do vua Manuel đệ nhất giao thực hiện một chuyến thám hiểm được tổ chức bí mật nhằm mục đích thám sát các khu vực đã xác định vị trí ở bên ngoài đường phân định theo Hiệp-ước Tordesillas. Chuyến thám hiểm này khởi hành từ quần đảo Cap-Vert, theo một số người thì có lẽ nó đã dẫn đến việc ông khám phá ra xứ Brasil, ở khoảng giữa vùng Maranhão và Pará, trong khoảng thời gian giữa tháng mười một và tháng chạp cùng năm. Từ vùng đất này, có lẽ ông đã đi lên bờ biển phía bắc và đến đồng bằng sông Amazone cũng như đảo Marajó. Các nghiên cứu gần đây chứng minh rằng chắc chắn Pacheco Pereira đã khám phá ra Brasil vào năm 1498, hai năm trước chuyến đi đến miền đất này do Pedro Álvares Cabral thực hiện, ông này vẫn được coi là người Âu đầu tiên khám phá ra Brasil. Tuy nhiên, triều đình Bồ-đào-nha đã giữ kín bí mật trên vì nó vi phạm những điều lệ liên quan đến chuyện thám hiểm và khẳng định chủ quyền lãnh thổ do hai đế quốc đặt ra.

Năm 1503, Pacheco Pereira chỉ huy con tàu buồm Espírito Santo thuộc hạm đội của Albuquerque nhằm hướng Ấn-độ. Ông ở lại Cochin cùng một trăm năm mươi người Bồ-đào-nha dưới quyền và một số người bản xứ để bảo vệ một thương điếm của Bồ-đào-nha khỏi cuộc bao vây do năm chục nghìn quân của người cai trị xứ Calicut thực hiện. Sau khi đảm đương chức Tổng chỉ huy hạm đội Calicut, cũng như Phó-vương xứ Malabar, Ấn-độ, ông trở về Lisboa năm 1595 và được nhà vua vinh danh.


Hạm đội Armanda, với con tàu của Duarte Pacheco Pereira


Về cuối đời, sau khi thôi chức thống đốc São Jorge da Mina, ông bị tống giam theo lệnh của João đệ tam về tội buôn lậu vàng. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, người ta vẫn không biết được động cơ thật sự của quyết định này. Ra tù, Pacheco Pereira được nhận ba trăm cruzados như phần thanh toán cho số nữ trang ông đã mang về lúc đương chức và gửi Nhà Mỏ nấu chảy. Tai hoạ cuối đời của Pacheco Pereira có thể được hiểu do ông ở xa Lisboa và sự thành đạt của ông đồng nghĩa với việc ông có nhiều kẻ thù ở ngoại quốc trong khi đó có ít bạn hữu ở kinh đô để bảo vệ ông. Pacheco Pereira qua đời khi không có người thân bên cạnh và không một xu dính túi. Ông mất vào đầu năm 1533 và ít lâu sau, nhà vua có ban cho con trai ông là João Fernandes Pacheco một khoản trợ cấp hai vạn reais. Do các món trợ cấp của hoàng gia lúc nào cũng đến muộn, vợ và con trai ông đã phải nếm trải nhiều khó khăn, điều này khiến họ phải chạy vạy vay nợ. Huyền thoại về cái chết của Duarte Pacheco Pereira đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều nghệ sĩ Bồ-đào-nha. Một nhà sử học nước này sống lưu vong tại Brasil trong những năm 1960 đã coi ông như một bậc anh tài, người mà cách nay hơn hai thế kỉ đã tính toán độ kinh tuyến với sai số có 4%.

Theo wikipedia




vendredi 20 mars 2009

Brasil

Terra Brasilis


#718. 200 escudos đúc năm 1999


Đất Ba-tây

**********************

Một tấm bản đồ Brasil do các nhà thám hiểm Bồ-đào-nha vẽ năm 1519


Brasil có nhiều đặc điểm chung với hầu hết các quốc gia Nam Mĩ khác: đây là một nước có đa số người dân theo đạo Thiên chúa, mật độ dân cư khá thấp và tập chung cao ở thành thị. Từng là một thuộc địa trù phú của triều đình Bồ-đào-nha trong nhiều thế kỉ, ngày nay đất nước này là di sản duy nhất của Bồ-đào-nha ở châu Mĩ. Đại diện cho di sản đó là ngôn ngữ chính thức, tiếng Bồ-đào-nha.

***

Theo chính sử, nhà thám hiểm Pedro Álvares Cabral người Bồ-đào-nha khám phá ra miền đất này vào ngày 22 tháng tư 1500. Tuy nhiên, thời gian đầu, người Bồ-đào-nha không mấy mặn mà với Brasil mà tập trung nhiều hơn vào các hoạt động thương mại với Trung-hoa, Ấn-độ và Indonesia. Với nguồn tài nguyên và đất đai chưa khai phá hết sức lớn, nhiều nước châu Âu khác như Pháp và Hà-lan cũng muốn lập thuộc địa tại Brasil song cuối cùng đều thất bại trước người Bồ-đào-nha.
Tên gọi Brasil bắt nguồn từ tên một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vùng đất này: cây vang (trong tiếng Bồ-đào-nha là Pau-Brasil), một loại cây cung cấp nhựa để làm phẩm nhuộm màu đỏ. Sang thế kỉ XVII, mía đường dần thay thế cây vang để trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của Brasil. Các quý tộc và chủ đất người Bồ-đào-nha đã lập ra các đồn điền trồng mía rộng lớn và bắt hàng triệu người da đen từ châu Phi sang làm nô lệ làm việc trên các đồn điền này. Người da đen bị đối xử rất khắc nghiệt nên họ đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa năm 1835 tại Salvador, Bahia song thường không thành công.

***

Vào năm 1808, để chạy trốn khỏi quân đội Napoléon, hoàng gia Bồ-đào-nha cùng chính phủ đã di cư đến thủ đô lúc bấy giờ của Brasil là Rio de Janeiro. Đây là chuyến di cư xuyên lục địa của một hoàng tộc duy nhất trong lịch sử. Năm 1815, vua João VI (Jean IV) của Bồ-đào-nha tuyên bố Brasil là một vương quốc hợp nhất với Bồ-đào-nha và Algarve (nay là miền nam Bồ-đào-nha). Từ đó, về mặt danh nghĩa, Brasil không còn là một thuộc địa nữa nhưng quyền nhiếp chính thì vẫn nằm trong tay của Bồ-đào-nha. Khi João VI trở về chính quốc vào năm 1821, con trai ông là Pedro lên nối ngôi vua Brasil. Ngày 7 tháng chín 1822, trước phong trào đấu tranh của người dân, Pedro đã tuyên bố Brasil li khai khỏi Bồ-đào-nha (khẩu hiệu "Độc lập hay là Chết") và thành lập Đế chế Brasil độc lập. Vua Pedro tự phong danh hiệu Hoàng đế Pedro I của Brasil và thường được biết đến với tên gọi Dom Predo.

***

Hoàng đế Pedro I trở về Bồ-đào-nha vào năm 1831 do những bất đồng với các chính trị gia Brasil. Con trai ông là vua Pedro II lên ngôi năm 1840 khi mới mười bốn tuổi sau chín năm chế độ nhiếp chính. Pedro II đã xây dựng một chế độ quân chủ gần giống nghị viện kéo dài đến năm 1889 khi ông bị phế truất trong một cuộc đảo chính để thành lập nước cộng hòa. Trước khi kết thúc thời gian cai trị của mình, vua Pedro II đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ tại Brasil vào năm 1888. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông bị giới chủ nô căm ghét và loại bỏ khỏi ngai vàng.

***

Pedro II bị phế truất vào ngày 15 tháng 11 năm 1889 trong một cuộc đảo chính quân sự của những người cộng hòa. Tướng Deodero de Fonseca, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã trở thành tổng thống trên thực tế đầu tiên của Brasil. Tên của đất nước được đổi thành Cộng hòa Hợp chúng quốc Brasil, và từ 1967 cho đến nay nước này mang tên Cộng hòa Liên bang Brasil.

Nguồn chính wikipedia tiếng Việt

************

Xem Mélodie d'amour (Kaoma)



mercredi 18 mars 2009

Francisco Xavier

Francisco Xavier
(*1506 - †1552)


#697. 200 escudos đúc năm 1997


***************


Tượng đài Thánh Francisco Xavier


Thánh Francisco Xavier sinh ngày mồng 7 tháng tư 1506 tại Javier, gần Pampelune thuộc Vương quốc Navarre, tạ thế ngày mồng 3 tháng chạp 1552 ở đảo Sancian, ngoài khơi tỉnh Quảng-đông, Trung-quốc. Ông là nhà truyền giáo dòng Tên và được các tín đồ Thiên chúa giáo La-mã cũng như Anh giáo công nhận là một vị thánh. Mồng 3 tháng chạp hằng năm là ngày lễ của vị thánh này. Theo Giáo hội Công giáo La-mã, ông là người có công thuyết phục được nhiều người theo Kitô giáo hơn bất cứ ai khác kể từ thời Thánh Phaolô (Saint Paul).
Francisco Xavier từng theo học môn thần học tại Sorbonne và tá túc ở collège Sainte-Barbe. Chính tại nơi này ông đã gặp Pierre Favre và Ignace de Loyola rồi cùng họ tham gia thành lập Đoàn Giê-su (la Compagnie de Jésus) vào năm 1534.
Hết lòng với việc Chúa, ông được phong linh mục năm 1537. Theo yêu cầu của vua João đệ tam nước Bồ-đào-nha, vào năm 1540, giáo hoàng Paul III đã phái ông sang các xứ Đông Ấn để truyền bá Phúc âm cho người dân ở đó. Ông lên tàu tháng tư 1541 và cập bờ tại Goa, lúc đó là thuộc địa của Bồ-đào-nha, ngày mồng 6 tháng năm 1542. Tại xứ Đông Ấn, đặc biệt ở Goa, ông đã tiến hành nhiều đợt cải đạo hết sức thành công. Francisco Xavier cũng đã sang tận Đài-loan.
Mặc dù là vị cha đạo dòng Tên đầu tiên có mặt ở Ấn-độ, ông đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng, điều này khiến cho các chuyến đi truyền giáo không được hoàn toàn mĩ mãn. Francisco Xavier đã thiếu tôn trọng với đạo Hindou. Thay vì kết hợp Thiên chúa giáo với Hindou giáo và từ đó làm các tín đồ dần dần muốn cải đạo, ông lại muốn có sự thay đổi nhanh chóng. Ông truyền bá đức tin trong tầng lớp người nghèo. Những người đi sau ông như de Nobili, Ricci và Beschi đã rút được bài học từ sai lầm của Francisco, và họ cố gắng cải đạo cho giai cấp quí tộc trước, việc làm này nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến nhiều người hơn nữa.
Năm 1545, ông lên đường đi Malacca và từ đó ông sang Moluques. Tại quần đảo này, ông đã gây dựng các cơ sở truyền giáo ở Ambon, Morotai và Ternate trong hai năm 1546, 1547. Tháng chạp 1547, tại Malacca, ông đã gặp Anjiro, một quí tộc Nhật-bản người vùng Kagoshima. Vị này khiến ông nảy ra ý tưởng truyền bá Phúc âm cho xứ Phù-tang. Ngày 27 tháng bảy 1549, Francisco Xavier tới Nhật-bản song mãi đến 15 tháng tám, ông mới lên bờ ở Kagoshima, hải cảng chính của tỉnh Satsuma trên đảo Kyushu. Ông được tiếp đón thân tình và được gia đính Anjiro nuôi ăn ở đến tháng mười 1550. Từ tháng mười đến tháng chạp cùng năm, ông cư ngụ tại Yamaguchi. Trước Giáng sinh không lâu, ông rời nơi đó đi Kyoto nhưng không gặp được Hoàng đế. Francisco Xavier quay lại Yamaguchi vào tháng ba 1551 và được chính quyền địa phương cho phép giảng đạo. Tuy nhiên, do không thạo tiếng Nhật, ông chỉ có thể đọc to bản dịch một cuốn sách dạy giáo lí đạo Chúa. Nhà truyền giáo này có ảnh hưởng to lớn ở Nhật-bản. Ông là cha đạo dòng Tên đầu tiên đến xứ sở này. Ông mang theo nhiều tranh Đức Mẹ, Đức Mẹ và Chúa hài đồng, và dùng chúng để giảng dạy Thiên chúa giáo cho người Nhật-bản.
Francisco Xavier mất năm 1552 sau khi ngã bệnh trong chuyến hành trình bằng tàu từ Malacca đến đảo Sancian. Thi hài ông hiện đang yên nghỉ ở nhà thờ Đức Giê-su nhân từ, Goa (Ấn-độ). Từ năm 1614, cánh tay phải của ông được cất giữ trong hòm thánh tích của nhà thờ Chúa Giê-su (Roma), đây là nhà thờ chính của Đoàn Giê-su.
Theo wikipedia

samedi 14 mars 2009

Historia de Japam

Chuyện xứ Phù-tang



#698. 200 escudos đúc năm 1997




******

Đức cha Luís Fróis (sinh năm 1532 tại Lisbonne, mất năm 1597 tại Nagasaki) là nhà truyền giáo dòng Tên. Ông là một trong số những người Tây-phương đầu tiên đặt chân lên đất Nhật-bản. Năm 1563, ông đến đất nước mặt trời mọc để truyền bá đức tin, tiếp bước Francisco Xavier, người đã ở xứ sở này từ năm 1549. Một năm sau, ông đến Kyoto và tiếp kiến Ashikaga Yoshiteru, vị tướng quân (shogun) vào thời gian đó. Năm 1569, Luís Fróis kết thân với Oda Nobudaga và sống tại tư dinh của vị này ở Gifu trong một thời gian ngắn khi ông đang viết sách. Trong khoảng ba chục năm sống tại đây, ông đã đi thăm thú nhiều nơi, điều này giúp ông nắm vững phong tục của người Nhật. "Chuyện xứ Phù-tang" (Historia de Japam) là một tác phẩm nổi tiếng của Luís Fróis.

******


Về chữ viết tắt IHS trên đồng xu



Ấn tín của dòng Tên. "IHS" là 3 chữ đầu của "IHΣOYΣ", "Giêsu" trong tiếng Hi-lạp. Về sau được giải thích như "Iesus Hominum Salvator" ("Giêsu đấng Cứu chuộc nhân loại") hoặc "Iesum Habemus Socium" ("Chúng ta có Giêsu là Bạn hữu")

Tham khảo từ trang này

mercredi 11 mars 2009

Parle plus bas

Hỏi nhỏ
1977 & Đông-dương thuộc Pháp

Cơ quan Khí tượng Hoàng-gia Anh tại Cửu-long, Hồng-công gửi lá thư này sang Việt-nam ngày 14 tháng năm 1977. Có một điều khó hiểu là đến thời điểm đó mà họ vẫn đề địa chỉ người nhận

"The Director

Service Met. de l'Indochine

Saigon,

Indochine Française."

Chẳng lẽ đến năm 1977, người Anh vẫn cho rằng Đông-dương thuộc về nước Pháp? Ai có thể giải thích giúp tôi thắc mắc này được không? Xin cảm ơn trước.

*******

Xem Patrick Fiori hát Parle plus bas .
Nghe Patrick Fiori hát bài này
Nghe Tino Rossi hát bài này
Xem Dalida hát bài này

Porto Santo

Ilha Doudara



#647. 100 escudos đúc năm 1989



**************


Porto Santo là hòn đảo đông dân thứ nhì thuộc quần đảo Madeira của Bồ-đào-nha trên Đại-tây-dương. Hòn đảo này cách đảo chính Madeira 50 cây số về hướng đông-bắc. Porto Santo còn được mệnh danh là "Đảo Vàng óng" (Ilha Doudara) do phong cảnh mang sắc màu hoang vắng và dải bờ biển toàn cát vàng óng ả. Hòn đảo này được hình thành từ núi lửa cách đây hàng triệu năm. Điểm cao nhất ở Porto Santo là Pico de Facho (Đỉnh của Ngọn đuốc) đạt 541 mét. Dân số ước tính khoảng hơn 4500 người sống trên một diện tích 43 cây số vuông. Thành phố chính là Vila Baleira.
Hòn đảo này sống chủ yếu dựa vào ngành du lịch, với một bãi biển dài trên 7 km toàn cát trắng mịn và khí hậu rất dễ chịu. Hoạt động du lịch ở đây phát triển rất nhanh, đặc biệt tại bờ biển phía nam.
Nhà hàng hải João Gonçalves Zarco nhân danh nước Bồ-đào-nha đã chiếm hữu hòn đảo này năm 1419 (trên thực tế, nó đã xuất hiện trên một tập atlas của nước Ý từ thế kỉ XIV), và ông đặt tên cho nó là đảo Porto Santo (Bến cảng Thánh thần) vì có lẽ ông tìm được chỗ trú chân ở đó sau một trận bão biển. Christophe Colomb cũng từng sống trên đảo này và kết hôn với Filipa Moniz, con gái của vị chúa đảo đầu tiên là Bartolomeu Perestrelo. Họ có với nhau một người con trai là Diego Colomb.
Theo wikipedia

dimanche 8 mars 2009

Hélas, des crachins ont été de retour!

Ga Hà nội


214 - HANOI - Nhà Ga (Mặt tiền phía đông)
Collection R.Moreau, Hanoï
Mấy phu xe đang ở đầu Boulevard Gambetta - Phố Trần Hưng Đạo
************
Gửi từ Việt trì ngày 22 tháng chín 1905
Đến Mornant, Aries Lyon - Rhône ngày mồng 1 tháng mười một 1905
************


Léon Gambetta (*1838 - †1882)(tác phẩm khắc a-xít của Richard Brend'amour)
Gambetta là một chính trị gia Pháp theo phái cộng hoà. Ông từng đảm nhiệm các chức vụ Thủ tướng và Bộ trưởng Ngoại giao Pháp.
Có thể tìm hiểu thêm về nhận vật này ở đây

dimanche 1 mars 2009

J'espère te rejoindre un jour

Rue Paul Bert - Phố Tràng tiền

Hanoï - Rue Paul Bert
Hôtel et Café de la Paix.
Khách sạn và Hàng Cà-phê Hoà-bình


Chiếc thiếp trên nằm trong một loạt các bưu ảnh mà một quân nhân đã viết trong thời gian anh lưu trú tại Đông-dương. Chúng được anh gửi đi trong suốt hành trình và thời gian lưu trú ở mỗi miền đất (Hà-nội, Huế, Sài-gòn). Tất cả đều được đánh số thứ tự và đề ngày tháng.
Cette carte issue d'une série écrite par un militaire ayant séjourné en Indochine. Les cartes ont été expédiées durant son trajet et son séjour. Elles sont toutes numérotées et datées

N° 205. Hanoï, le 8/9/50
En souvenir de cette ville d'Indochine, voiçi la Rue Paul Bert dont je passe tous les matins devant cet hôtel.
Reçois, ma petite femme chérie les plus doux et tendres baisers de ton petit mari qui t'aime à la vie.
Bons Baisers